Nhà phê bình Thụy Khuê trong buổi giao lưu với các sinh viên mỹ thuật tại Bảo tàng Mỹ thuật năm 2023
Thụy Khuê tên thật là Vũ Thị Tuệ, bút danh Thụy Khuê. Năm 1954 gia đình bà di cư vào Nam. Thụy Khuê học trung học tại trường nữ sinh Gia Long, đến năm 1962 bà sang Pháp du học và định cư ở đó. Bà bắt đầu viết phê bình từ năm 1985, phụ trách chương trình Văn học nghệ thuật của đài RFI và ra một loạt các đầu sách lý luận phê bình.
Lên đường đến Pháp, các danh hoạ như Lê Thị Lựu, Vũ Cao Đàm, Lê Phổ, Lê Bá Đảng... mang một hành trang đậm hồn Việt và luôn hướng về dân tộc. Thuỵ Khuê là người gắn bó với với các nghệ sĩ, cùng sinh hoạt và chia sẻ với nhau trong những tháng ngày sống xa quê hương. Thuỵ Khuê âm thầm bên cạnh, ghi nhận và suy niệm hết thảy những sự kiện trong cuộc đời và sự nghiệp của các danh hoạ. Có thể nói, mối quan hệ của hai Bác với các danh hoạ đương thời ví như tình cảm của những người thân ruột thịt. Nói như vậy để có thể hình dung được rằng, không ai có thể hiểu hơn về các danh hoạ ấy bằng Thuỵ Khuê.
Sức ảnh hưởng của Thuỵ Khuê không chỉ nằm ở việc Bác là một nhà phê bình, mà nó còn nằm ở tấm lòng rộng lượng và tính cộng đồng. Chưa nói tới việc, bên cạnh Bác là một người chồng tri thức, hiểu biết, yêu nghệ thuật và luôn ủng hộ mọi quyết định của Bác.
Tháng 6 năm 2023, đại diện Bảo tàng Mỹ thuật, giám đốc Bảo tàng mỹ thuật Tp. HCM ông Trần Thanh Bình đã đến Paris và tiếp nhận hơn 200 tác phẩm nghệ thuật của họa sĩ Lê Bá Đảng do nhà phê bình nghệ thuật Thụy Khuê hiến tặng. Chính sự hào phóng và rộng lượng của 2 vợ chồng ông bà Thụy Khuê và Lê Tất Luyện, mà chúng ta... thế hệ trẻ ngày nay có được cơ hội nhìn ngắm những tác phẩm nghệ thuật tưởng chừng mãi mãi không chạm tới được.
Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật ông Trần Thanh Bình và nhà phê bình Thụy Khuê tại Pháp năm 2023
Tiếp nhận tác phẩm từ họa sĩ Lê Bá Đảng
Dưới đây là trích đoạn trong cuốn sách Lê Bá Đảng cuộc đời và tác phẩm do Tác giả Thụy Khuê biên soạn, sách được xuất bản năm 2023
KHÔNG GIAN LÊ BÁ ĐẢNG
Ý niệm về không gian, ai chẳng có. Ý muốn biểu dương vũ trụ cũng không lạ. Nhưng ý thức được tính tương đối trong vũ trụ thì có lẽ phải đến Lão-Trang mới thật sự đặt vấn đề. Với chim bằng, cá côn, ao trời, gió lốc... Trang Chu đã "tạo hình" cái vô cùng của tạo vật và cái lẽ tương đối ở đời.
Hội họa Tây phương, giàu kỹ thuật và kinh nghiệm, không ngừng biến chuyển, nhưng vẫn nghiêng về hình thể, vẽ những gì nắm bắt được, kể cả khi phá thể để lập thể, để trừu tượng. Trong một chừng mức nào đó, dường như hội họa Tây phương vẫn chưa thật tình thám hiểm thế giới tâm linh, chưa thật sự trăn trở với lẽ âm dương, sống chết, với cái lý tương đối ở đời.
Hội họa Đông phương nghiêng về đạo, về triết lý sống, nhưng lại không tìm cách phát triển những kỹ thuật hội họa tân kỳ, cho phép diễn tả một cách đa chiều, đa dạng.
Hiếm hoi là những nghệ sĩ dung hợp được kỹ thuật tạo hình phương Tây với triết lý sống phương Đông, để tạo ra con đường nghệ thuật phức âm, đa nghĩa; rọi ánh sáng dưới nhiều góc độ vào những trăn trở của con người về cõi sống, cõi chết, cõi biết, cõi không, về hư vô, cực lạc, về cái đạo của con người, ở chỗ Tâm và Vật không còn phân chia giới hạn.
Lê Bá Ðảng là một trong những nghệ sĩ Á Đông hiếm hoi, đã nắm được bí quyết giao hoà Ðông Tây, tìm đến sự hòa đồng Tâm-Vật, Âm-Dương, Hữu Hạn-Vô Hạn trong tác phẩm nghệ thuật.
Trong hành trình sáng tạo, Lê Bá Ðảng đi từ con mèo, con ngựa, con trâu đến... con người, và ở mỗi con, ông đều cố gắng đào sâu đến nguồn ngọn, cỗi rễ: Với lối nhìn "thấu suốt", ông có thể chế tạo những "đầu-trâu-tâm-phật", "hình người-dạ thú", "khẩu phật-tâm xà"... dễ như trở bàn tay. Qua bẩy mươi năm sống với nghệ thuật tạo hình, dường như ông đã thuộc lòng thế giới "nhân sinh cầm thú", đã quá quen với không gian ba chiều trong lối học hàn lâm, mà cách nhìn "viễn cận" chưa hề thay đổi từ hơn 20 thế kỷ.
Lê Bá Đảng muốn trở tay tìm kiếm, muốn thám hiểm cõi sống chết của con người, ngoài hội họa.
Không gian Lê Bá Đảng là sự phản kháng những không gian ba chiều đã trọng tuổi, là sự chống lại quan niệm lỗi thời của hội họa trường ốc: Vẽ những gì thấy trước mắt. Dù nghệ nhân có thể hồi khứ, ngoái lại dĩ vãng, nhưng vẫn phải moi ký ức ra khỏi óc, để nó lên bàn, trước mặt, mà vẽ.
Hội họa lập thể mở rộng hơn: Đối tượng vẽ, không im lìm, không "chết", nó có quyền chuyển động. Lập thể mở thêm chiều thứ tư: Chiều chuyển động cho tác phẩm.
Hội họa trừu tượng phá thể, để ngòi bút xé nát đối tượng, tiêu tùng hình thái, vẽ những tư tưởng. Mỗi nghệ sĩ có thể tạo một lối họa, lối nhìn riêng về đối tượng; và người xem cũng có quyền nhìn tác phẩm theo ý mình, độc lập với nghệ sĩ. Hội họa trừu tượng phá bung những định kiến, những hàng rào ngăn cách, để con người tự do thưởng ngoạn, tự do tưởng tượng và nghệ sĩ tự do sáng tác. Mối tương quan cố định giữa đề tài bức tranh và sự cảm nhận của người xem không còn nữa. Hội họa trừu tượng lấy tư tưởng làm đối tượng, lấy tự do làm khởi điểm và chính ở chỗ tự do ấy, con người mới thấy cái giới hạn của chính mình.
Lê Bá Đảng muốn thoát ra khỏi tất cả những ràng buộc về quy luật của nghệ thuật cổ điển, kể cả sự "tự do giới hạn" trong hội họa trừu tượng, để mở ra một "cõi ta" của riêng mình, ông sáng tạo Không gian Lê Bá Đảng.
Không gian Lê Bá Đảng là gì?
- Ðó là sự gặp gỡ giữa nhiều ngành nghệ thuật: Kiến trúc, điêu khắc, hội họa... Lê Bá Đảng không chỉ vẽ mà ông tạo hình.
- Ðó là mối tương quan giữa người, vật và vũ trụ. Cách nhìn của Lê Bá Đảng có gì gần gũi lẽ tương đối của Trang Chu: nhỏ có lý của nhỏ, lớn có lý của lớn, phải cũng vô cùng và trái cũng vô cùng: cứ lấy ánh sáng mà soi thì sẽ thấy lẽ tương đối nẩy ra, và họa sĩ thể hiện cái lẽ tương đối ấy trong Không gian Lê Bá Đảng. Bỏ cái nhìn một chiều, nhìn ngang, hướng về trước mặt, ông nhìn từ trên xuống và biến đổi không ngừng các góc độ nhìn, như mắt chim bay.
Ở những mô hình Không gian thực tiễn, Lê Bá Ðảng nhìn từ không trung, bằng mắt chim côn, như ta đứng trên mặt trăng nhìn xuống đất. Tôi gọi là viễn cận vạn lý.
Không gian thực tiễn thể hiện những nứt nẻ trên mặt đất, những đỉnh cao, vực sâu, trong lòng đất, lòng biển, từ sự bất tận của đại dương đến những li ti như phận người, phận kiến. Trong không gian thực tiễn, với viễn cận vạn lý, Lê Bá Đảng có thể gồm thâu vũ trụ địa chất và thế giới nhân sinh trong chiều kích không quá một thước dài, hai thước rộng.
Không gian ảo tưởng gây không khí siêu hình giữa sống và chết. Ông vẽ cái hư vô, cái không và cái có. Kỹ thuật, chất liệu, cách sắp xếp trong mỗi không gian như muốn tạo nên một thế giới, một vũ trụ ngoài màu sắc. Nói khác đi, trong cõi hư vô ấy, màu sắc chỉ là cái cớ để lưu lại với hội họa, ông hay dùng sắc nâu, sắc xám, toàn trắng, toàn đen, màu thổ hoàng, cánh gián, chấm phá vài điểm son như những cột mốc, để tư tưởng, trí nhớ và tâm linh có thể trụ lại giữa khoảng vô thỉ, vô chung.
Trước những tác phẩm này, một cảm giác hoang mang, lạc loài xâm lấn, như mình đang nhìn cái hữu hạn của cuộc đời giao tiếp với cái vô hạn của tử sinh, luân hồi, truyền kiếp.
Trong loại không gian thứ ba, Không gian lịch sử-địa tầng, họa sĩ tạo cảm giác thời gian liên kết với không gian: một bên là con đường xuyên suốt quá khứ-tương lai, một bên là viễn cận xuyên địa: mắt nhìn từ cung trăng xuống địa cầu, đâm sâu vào những địa từng, địa đạo. Dường như họa sĩ muốn hình tượng hóa cả một thời kỳ lịch sử dân tộc: Xuyên qua những thửa ruộng khô, những cánh đồng cháy, những bãi cát dài, những ngôi cổ mộ, vào những lớp địa tầng, đi đến trung tâm trái đất. Trên đường xuyên địa, thỉnh thoảng lộ lên vài chiếc bóng lơ lửng, mơ hồ, rêu phong, như thấp thoáng có hồn Trọng Thủy đang tìm dấu Mỵ Châu qua vết lông ngỗng xác xơ, tan tác... Ở một khoảng tối này, có phải Diêm Vương đang hành hình lũ tội đồ? Ở một không gian u ám trên kia, Hằng Nga đang cô đơn, giá buốt trên cung Quảng?... Tác phẩm của ông có nét hoài nghi về tương lai, kèm những khổ đau trong hiện tại và u hoài về quá vãng.
Nghệ thuật của ông như muốn "thoát hài", đập vỡ cổ kính để tạo ra không gian phi thời gian, gồm thâu quá khứ, vị lai, địa tầng, địa chất, cõi này, cõi khác trong khoảnh khắc một cái nhìn. Ðộc đáo. Cô đơn. Nhưng chính sự cô đơn đó là ánh sáng nội tâm soi trong địa đạo Lê Bá Đảng.
- Thụy Khuê-